Bác sĩ Trần Quốc Tuấn, giảng viên cao cấp Bộ môn Thần kinh Đại học Y dược TP.HCM cho biết, đột quỵ ở trẻ em và người lớn về bản chất không khác nhau. Đây là những cơn nhồi máu não hoặc xuất huyết não, có thể gây bất thường về thần kinh và để lại di chứng. Mức độ nặng hay nhẹ tùy thuộc vào từng bộ phận cụ thể của tổn thương.
Tuy nhiên, so với người lớn, nguyên nhân và nguy cơ đột quỵ ở trẻ em Các yếu tố khác nhau nên hướng chẩn đoán và điều trị cũng khác nhau. Trẻ càng lớn, càng ảnh hưởng nhiều đến việc chẩn đoán và điều trị của người lớn.
Theo Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ, đột quỵ ở trẻ em không được phân loại là chảy máu, và nhồi máu là đột quỵ ở trẻ em. Tuổi trưởng thành cũng dựa trên tuổi tác. Từ 28 ngày sau khi sinh đến 18 tuổi, đột quỵ xảy ra từ 28 tuần tuổi thai đến 28 ngày sau khi sinh được gọi là đột quỵ chu sinh.
Đột quỵ chu sinh liên quan đến các yếu tố nguy cơ và rủi ro của trẻ em. Đối với người mẹ. Các yếu tố nguy cơ đối với trẻ sơ sinh bao gồm bệnh tim bẩm sinh, rối loạn đông máu, nhiễm trùng, chấn thương khi sinh và ngạt. Các rủi ro của mẹ bao gồm vô sinh, tiền sử hiếm muộn, nhiễm trùng ối, rỉ ối, vỡ ối sớm, phải hỗ trợ hút thai khi sinh, mổ lấy thai khẩn cấp, sản giật, rối loạn đông máu. Càng nhiều yếu tố nguy cơ, nguy cơ đột quỵ chu sinh càng cao.
Do những khó khăn về nhận dạng lâm sàng, đột quỵ chu sinh khó phân biệt. Khi đã được chẩn đoán, điều trị chủ yếu là hỗ trợ và tìm ra các yếu tố nguy cơ có thể điều chỉnh được. Không có bằng chứng cho thấy các phương pháp điều trị hiệu quả cho đột quỵ ở người lớn, chẳng hạn như tiêu sợi huyết hoặc can thiệp tái chế, có hiệu quả trong nhóm này.
Bác sĩ can thiệp cứu bệnh nhân đột quỵ. Đột quỵ. Ảnh: Minh Tâm .
Theo bác sĩ Tuấn, trẻ đột quỵ (từ 28 ngày tuổi đến 18 tuổi) có các triệu chứng giống người lớn như động kinh, yếu tay chân, biến dạng mặt, giảm thị lực, rối loạn vận động, nói năng. Ở trẻ lớn có rào cản … Nếu ở người lớn, yếu tố nguy cơ quan trọng nhất là xơ vữa động mạch, thì ở trẻ em, 3 nguyên nhân thường gặp nhất là bệnh tim bẩm sinh. Bệnh Yamoya (một chứng hẹp bẩm sinh) và các động mạch giải phẫu. Các yếu tố nguy cơ khác có thể làm tăng tỷ lệ đột quỵ ở trẻ em bao gồm các bệnh mô kẽ toàn thân như lupus, thiếu máu hồng cầu hình liềm, tăng đông máu, đau cơ xơ hóa động mạch và u máu. Lỗ não… Hầu hết các trường hợp đột quỵ ở trẻ em là do bẩm sinh hoặc các vấn đề về giải phẫu. Hiện chưa có nghiên cứu quy mô lớn nào chứng minh hiệu quả của các biện pháp can thiệp đối với đột quỵ ở trẻ em, vì vậy các phương pháp điều trị đột quỵ ở người lớn và trẻ em luôn cần được cân nhắc dựa trên đặc điểm của tổn thương. Và diễn biến của bệnh. Bệnh nhân đơn lẻ Do tai biến mạch máu não hiếm gặp và có nhiều yếu tố nguy cơ nên việc phòng ngừa đột quỵ ở trẻ em là rất khó. Một khi trẻ bị tai biến mạch máu não, sau khi điều trị tai biến mạch máu não cấp, lời khuyên chung để ngăn ngừa bệnh tái phát là tìm nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ để từ đó điều trị thích hợp nguyên nhân cơ bản. . Ví dụ, để đóng các lỗ tim bẩm sinh, điều trị tăng đông máu nếu cần thiết, xem xét truyền máu trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm, phẫu thuật chống kết tập tiểu cầu, phẫu thuật nối các động mạch nội sọ. Moya Moya …— Theo trường hợp nhồi máu não tại Khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thành phố Lê Trọng Nghĩa, việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời là vô cùng quan trọng, không chỉ giúp bệnh nhân thoát khỏi. Tử đằng cũng giúp phục hồi các vùng não bị thiếu máu. Khi bệnh nhân đến viện quá lâu để can thiệp hiệu quả và bệnh tiến triển nặng, phẫu thuật sọ não là lựa chọn cuối cùng, vì vùng não bị tổn thương có thể chèn ép các cấu trúc não quan trọng hoặc tăng áp lực bên. Ngăn cản việc cung cấp máu cho phần còn lại của não.
Trong những trường hợp này, mục đích của phẫu thuật là cứu sống và giảm tỷ lệ tử vong do nhồi máu não nặng. Khả năng phục hồi của các chức năng bị suy giảm trước phẫu thuật (như ngôn ngữ vận động và các chức năng sau phẫu thuật) là không đáng kể.
Tại thời điểm này, hoạt động có thể được chỉ định là dẫn lưu. Chất lỏng chảy ra khỏi não ít hơn hoặc hộp sọ phải được mở ra để giảm áp lực bên trong não. Việc tiến hành phẫu thuật hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tình trạng hiện tại của bệnh nhân, các rủi ro phẫu thuật có thể xảy ra, mong muốn và khả năng tìm kiếm một kế hoạch điều trị lâu dài của gia đình bệnh nhân. .
Puchong