Trong quá trình nghiên cứu bệnh Whitmore hơn 10 năm, TS Trịnh Thành Trung, Trưởng phòng Quản lý Khoa học và Công nghệ, Viện Vi sinh và Công nghệ Sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã tổng kết 10 quan niệm sai lầm phổ biến về loại bệnh này. Loại vi khuẩn nguy hiểm này. Tiến sĩ Trang đã dạy cách xác định nhiều vi khuẩn hơn ở quận River Ting. Ảnh: NVCC-Whitmore không phải là một căn bệnh mới – trường hợp đầu tiên được phát hiện vào năm 1911 bởi nhà bệnh lý học người Anh Alfred Whitmore ở Yangon, Myanmar của. Sau hơn một thế kỷ nghiên cứu, Whitmore phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á và Bắc Úc. Trường hợp đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào năm 1925 tại Viện Pasteur TP. Trong Chiến tranh Việt Nam, gần 500 lính Pháp và Mỹ đã bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, số người Việt Nam mắc bệnh thực tế rất ít và rải rác.

Bệnh Whitmore sẽ không bao giờ xuất hiện lại ở Việt Nam.

Việt Nam về cơ bản là một căn bệnh bị lãng quên. Trên thực tế, nhiều bác sĩ chưa biết về căn bệnh này nên mất cảnh giác, nhiều người làm xét nghiệm vi sinh cận lâm sàng chưa được đào tạo và chưa có quy trình tầm soát bệnh. Chỉ sau khi mô tả ngắn gọn về quy trình, nhiều bệnh viện đã phát hiện ra những ca bệnh đầu tiên của Whitmore. Bệnh Whitmore là bệnh hay bị bỏ quên, không phải là bệnh lạ, tuy nhiên cũng là bệnh mới, mọi người không nên hoang mang về điều này.

Bệnh Whitmore không phải là hiếm

Trong số tất cả các quốc gia ở Đông Nam Á, căn bệnh này được công nhận là một quốc gia rất sạch ở Singapore, một quốc gia không có nông nghiệp và là khu vực có tỷ lệ lây nhiễm thấp nhất. Mười ba người trên một triệu người bị nhiễm (31-96 người mắc bệnh mỗi năm). Với một nước nông nghiệp như Việt Nam, con số này còn cao hơn nhiều.

Whitmore là một căn bệnh “không khủng khiếp”

Thực tế, Whitmore là một căn bệnh truyền nhiễm rất khủng khiếp và nguy hiểm, có thể gây chết người rất cao, tỷ lệ tử vong lên đến 40%. Đến 60%. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân được chẩn đoán sớm và điều trị bằng kháng sinh phù hợp thì tỷ lệ tử vong sẽ giảm đi rất nhiều.

Vi khuẩn Whitmore sẽ không tồn tại với số lượng lớn trong đất và nước bị ô nhiễm.

Vi khuẩn có thể sống ở bất cứ đâu trong đất ẩm, đặc biệt là trong đất canh tác như ruộng lúa. Do đó, ngay cả những nơi tưởng như sạch sẽ và không bị ô nhiễm cũng có thể bị nhiễm vi khuẩn này.

Nguy cơ mắc bệnh Whitmore không chỉ ở những người có khả năng miễn dịch suy yếu – những người có nguy cơ nhiễm trùng như bệnh nhân HIV. Những người mắc bệnh tiểu đường, nghiện rượu, hoặc các bệnh mãn tính về thận và phổi có nguy cơ bị nhiễm trùng cao nhất.

Whitmore không phải là một bệnh nhiễm trùng cơ hội

nó ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Từ trẻ sơ sinh đến người già, từ người khỏe mạnh đến người mắc các bệnh tiềm ẩn kể trên. Ở các vùng khác nhau, tỷ lệ trẻ mắc bệnh từ 5% đến 15% tổng số trường hợp mắc bệnh. Khoảng 35% trẻ mắc bệnh có biểu hiện viêm tuyến mang tai có mủ, nhiều người lầm tưởng là quai bị, 65% trẻ có các biểu hiện khác như viêm phổi, áp xe lá lách, thận … hoặc da, đặc biệt là trên đầu. Các nốt mụn, mặt và cổ.

Ở người lớn, hầu hết bệnh nhân phát triển viêm phổi với nhiễm trùng huyết, viêm bàng quang, tổn thương da có mủ, và trong một số trường hợp là viêm cơ hoặc viêm màng não. Các phòng xét nghiệm vi sinh trung ương, tỉnh và huyện đều có thể xét nghiệm vi khuẩn Whitmore. Xét nghiệm máu, mủ, đờm và nước tiểu thường có thể phát hiện ra vi khuẩn này. Một số trường hợp còn thấy dịch não tủy hoặc các dịch khác.

Điều trị bệnh Whitmore không hề đơn giản

Theo khuyến cáo của các chuyên gia quốc tế, việc điều trị bằng thuốc whitmore được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn điều trị tích cực và giai đoạn duy trì. Uống thuốc kháng sinh. Nên sử dụng kháng sinh (thường thuộc nhóm ceftazidime) trong ít nhất 2 tuần liên tục các đợt liều cao liên tục, sau đó tiếp tục sử dụng kháng sinh trong khoảng 3 đến 6 tháng. Đối với trẻ em và phụ nữ mang thai sẽ có những phương án điều trị riêng. Nếu bệnh nhân không được điều trị theo đúng phác đồ trên, tỷ lệ tái nhiễm sẽ cao.

Dấu hiệu đáng ngờ là bệnh nhân bị nhiễm nhiều loại virus hơn bạn thường nghĩ

từ tháng 6 đến tháng 11 hàng năm. Các triệu chứng thường là sốt, viêm phổi và áp xe nhiều nơiThông minh (nhiều ổ áp xe), nhiễm trùng đường tiết niệu. Nếu điều này xảy ra ở những người mắc bệnh tiểu đường cơ bản hoặc bệnh thận hoặc phổi mãn tính, những người nghiện rượu, và những người làm việc trực tiếp trên đất, bác sĩ nên nghi ngờ rằng bệnh nhân bị nhiễm thêm vi khuẩn Whitt và cho biết để nuôi cấy ngay lập tức Máu, độ ẩm, đờm hoặc nước tiểu. Nếu có nghi ngờ hoặc kết luận, xét nghiệm vi sinh cận lâm sàng và bác sĩ lâm sàng nên phối hợp với nhau để trao đổi kết quả ngay lập tức. Đối với người mắc bệnh, nếu có các triệu chứng trên cần đến ngay bệnh viện uy tín có phòng xét nghiệm vi sinh để khám và điều trị.