Các khối u biến mất mà không cần điều trị đã được báo cáo trong hàng nghìn năm. Trường hợp đầu tiên được nêu chi tiết trong tài liệu là Peregrine, một linh mục trẻ vào thế kỷ 13. Peregrine bị loét và nhiễm trùng nặng ở chân. Sau đó, bác sĩ chuyên khoa quyết định cắt cụt chi, đây là cách duy nhất để cứu sống bệnh nhân. Điều kỳ diệu là ngay đêm trước ca mổ, khối u đã thu nhỏ và biến mất. Peregrine vẫn khỏe mạnh cho đến năm 85 tuổi, và sau đó được phong thánh như một cuốn sách thánh.
Năm 1891, Coley, một bác sĩ trẻ tại Bệnh viện Memorial Hoa Kỳ, chứng kiến một bệnh nhân tái phát khối u ác tính trên gò mẹ. Khối u không thể cắt bỏ hoàn toàn và bị nhiễm trùng nặng. Điều đáng ngạc nhiên là sau khi bệnh nhân qua khỏi đợt nhiễm trùng, khối u đã tự biến mất. Kể từ đó, Coley tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa nhiễm trùng và các khối u. Coley cho rằng sau khi bị nhiễm trùng nặng, cơ thể có thể vô tình kích hoạt cơ chế miễn dịch chống lại vi khuẩn và khối u, để bệnh nhân có thể hồi phục.
Coley tiếp tục sản xuất độc tố từ vi khuẩn và tiêm chúng vào bệnh nhân. Một số bệnh nhân đã phản hồi, nhưng những hạn chế của nguồn tài liệu chẩn đoán và tài liệu không chứng minh được giá trị chính xác của phương pháp Coley. Ngoài ra, khi chưa có thuốc kháng sinh hiệu quả, nó được coi là “con dao hai lưỡi” khiến bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng. Một số bác sĩ đã cố gắng bắt chước Coley, nhưng kết quả không phải là tế bào ung thư rõ ràng. Ảnh: Northwestern Medicine-Phương pháp của Coley không còn được áp dụng cho y học hiện đại nhưng Coley được coi là người khởi xướng liệu pháp miễn dịch ung thư. Ung thư hiện được coi là căn bệnh mãn tính, việc điều trị cần kết hợp nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị… và không phải cứ nhiễm trùng là khỏi. Có nhiều loại vi khuẩn hoặc vi rút làm tăng nguy cơ ung thư, chẳng hạn như Helicobacter pylori trong ung thư dạ dày hoặc vi rút viêm gan B và C gây ung thư gan. Một số nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có mối tương quan tiêu cực giữa nhiễm trùng và ung thư và một số loại vắc xin phòng ngừa bệnh lao (chẳng hạn như BCG), có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh bạch cầu hoặc u ác tính. Nhiều loại ung thư được ghi nhận trong tài liệu, chẳng hạn như ung thư máu, ung thư vú và ung thư ở trẻ em. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh chỉ khoảng 1 / 100.000, tức là 100.000 bệnh nhân ung thư có thể tự biến mất, theo ghi nhận của các bác sĩ Pháp từ những năm 1960. Trên thực tế, con số này có thể thấp hơn nhiều. Ngoài các yếu tố miễn dịch trên, còn nhiều yếu tố khác mà con người chưa nhận thức hết.
Những nguyên nhân quan trọng khiến bệnh nhân ung thư tự khỏi bệnh và hiệu quả của các phương pháp không khoa học, không chính xác như kết quả chẩn đoán không chính xác như tiêm, cúng, dùng thực phẩm chức năng. Việc chẩn đoán ung thư nên bao gồm đánh giá sự tiến triển của bệnh, chụp CT, MRI và các xét nghiệm khác, cũng như kiểm tra chính xác khối u. Nếu không có các yếu tố này, có thể kết luận khối u ác tính là thiếu cơ sở. Hiện nay, việc điều trị ung thư đã có những bước phát triển vượt bậc. Ví dụ, trong điều trị ung thư vú dương tính với thụ thể nội tiết, tamoxifen có thể giảm tới 50% nguy cơ tái phát và nguy cơ tử vong do căn bệnh này lên đến 30%. Chi phí cũng rất thấp, và tác dụng phụ không đáng kể.
Nếu không may bạn hoặc người thân của bạn mắc phải căn bệnh ung thư thì nên đi khám và lựa chọn phương pháp điều trị khoa học nhất, thay vì chờ đợi điều kỳ diệu không biết bao giờ mới đến.
BS Nguyễn Triệu Vũ, Giám đốc Khoa Ung bướu, Bệnh viện Khu vực Zhou De Duke (TP.HCM)
Lê Phương