Bệnh dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm rất nguy hiểm do Yersinia pestis gây ra. Bệnh lây lan chủ yếu từ loài gặm nhấm (chuột, thỏ, v.v.) sang người qua bọ chét. Đến nay, ba đại dịch đã xảy ra trên toàn thế giới và hàng trăm triệu người đã chết vì căn bệnh này.

Theo ước tính của Bệnh viện Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh, trước năm 1980, số ca mắc bệnh ở Việt Nam rất cao. Tốt nhất trên thế giới. Từ năm 1960 đến 1970, Việt Nam có khoảng 10.000 trường hợp mỗi năm (chủ yếu ở miền Nam). Từ năm 1996 đến năm 2000, chỉ có 140 trường hợp và 7 trường hợp tử vong. Hai trường hợp cuối cùng ở Việt Nam được ghi nhận vào tháng 8/2002. Trong những năm gần đây, bệnh dịch hạch hầu như không xuất hiện trong bệnh viện.

Đường lây truyền:

Đường lây truyền bệnh dịch hạch. Nhiếp ảnh: Ppdipedia.com .

– Bọ chét sẽ hút máu động vật bị nhiễm bệnh (chuột, thỏ, nhím …) và cắn.

– Một người là vi khuẩn mà động vật bị nhiễm bệnh lây trực tiếp vào da bị trầy xước hoặc bị động vật nhiễm bệnh cắn.

– Một người trực tiếp hít phải vi khuẩn lơ lửng trong không khí. – Có bốn bệnh dịch có thể xảy ra: hạch bạch huyết, phổi, màng não và máu truyền nhiễm. Phổ biến nhất là hạch bạch huyết (trước đây là 94% đến 98% tại Việt Nam):

hạch bạch huyết:

triệu chứng:

– ớn lạnh, sốt cao hơn 38 độ. – Hạch bạch huyết ở háng, nách và cổ – Nếu không được điều trị, bệnh dịch hạch sẽ trở thành tàn dư nặng hơn bên dưới:

Phổi – đáng sợ hơn:

Bệnh tiến triển nhanh và tốc độ lây truyền nguy hiểm cao. Bệnh nhân có các triệu chứng sau:

– sốt cao, ớn lạnh, nhức đầu, chóng mặt, chóng mặt, khó chịu.

– Sau khoảng 24 giờ, bệnh nhân sẽ bị tức ngực, khó thở và thở nông. -Cough, có chất nhầy và chất nhầy mỏng, đặc, có máu hoặc nước bọt.

Nhiễm khuẩn huyết:

Số bệnh nhân mắc bệnh này rất cao, chỉ đứng sau các hạch bạch huyết. Bệnh nhân có triệu chứng:

– Sốt cao ở 40 đến 41 độ C, ớn lạnh, nhức đầu dữ dội, tiêu chảy và nôn nhiều lần.

– Bệnh nhân hoảng loạn, vật vã, kích thích tập thể dục, nói mơ hồ, thở nông. ..

Bệnh dịch hạch cầu khuẩn:

Những trường hợp này không phổ biến, thường xuất hiện ở các hạch bạch huyết và sau khi nhiễm trùng huyết. Bệnh dịch hạch từ trái sang phải: bệnh dịch hạch, nhiễm trùng máu, viêm phổi. Ảnh: Cdc.gov .

Cách phòng ngừa và chống lại bệnh dịch hạch

Theo hướng dẫn của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh, điều cần chú ý trong việc phòng bệnh là:

– Vệ sinh môi trường, cải thiện môi trường, cải thiện nhà cửa, nhà kho, nơi làm việc, lưu trữ thức ăn cho con người, giữ bí mật gia súc, để loài gặm nhấm và động vật gặm nhấm không có nguồn thức ăn và môi trường thuận lợi để sinh sống và chăn nuôi. -Đặt găng tay khi xử lý động vật chết để tránh tiếp xúc với da với bệnh dịch hạch .

– Nếu bạn nghĩ rằng bạn đã bị bọ chét cắn trong khi cắm trại, trú ẩn hoặc làm việc ngoài trời, vui lòng sử dụng thuốc chống côn trùng. Các sản phẩm có chứa DEET được áp dụng cho da, quần áo và các sản phẩm có chứa permethrin chỉ có thể được áp dụng cho quần áo (theo hướng dẫn trên nhãn).

– Tránh sử dụng thuốc trừ sâu để kiểm soát sâu bọ động vật. Chó, mèo, v.v … có nhiều khả năng tiếp xúc với bệnh dịch hạch hoặc bọ chét và mang căn bệnh này về nhà. Nếu con vật bị bệnh, cần được đưa đến bác sĩ thú y ngay lập tức. Ngoài ra, đừng để chó hoang và mèo ở trong nhà, đặc biệt là trên giường.

– Diệt chuột và bọ chét (đặt bẫy, thuốc xịt, cho mèo ăn, rắn, chim để bắt chuột …).

– Kiểm tra ngay lập tức và thông báo cho bộ phận y tế về bất kỳ dấu hiệu bệnh nào

Chẩn đoán Và điều trị – Triệu chứng phổ biến nhất của bệnh là đau hạch đột ngột ở các hạch bạch huyết. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là nhiễm trùng huyết và viêm phổi, không có dấu hiệu rõ ràng. Sau đó, chẩn đoán được thực hiện dựa trên xét nghiệm mẫu (chẳng hạn như máu hoặc dịch hạch bạch huyết). Nếu bệnh dịch hạch được xác định chính xác, bệnh nhân cần điều trị ngay lập tức. Bệnh dịch hạch rất nguy hiểm, nhưng nó có thể được chữa khỏi bằng kháng sinh thông thường và dễ dàng có sẵn. Phát hiện sớm và can thiệp kịp thời bệnh sẽ cung cấp khả năng phục hồi hoàn toàn. Những người tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân mắc bệnh dịch hạch viêm phổi cần được theo dõi và cách ly. Tùy thuộc vào tình hình và thời gian tiếp xúc với bệnh nhân, những người này có thể cần được điều trị bằng kháng sinh dự phòng.

Vương Linh