Lá me. Nhiếp ảnh: caytrongvithuoc .
Tiến sĩ Võ Văn Chí, tác giả của nhiều cuốn sách thảo dược quý, cho biết cây me trong cây meo rất nhút nhát mặc dù dù. Tên khoa học là Biophytum nhạyivum (L.) DC, thuộc họ vật lý của họ cỏ al.
Loại cỏ này cao khoảng 20 cm và có thân không có lông. Nó thường có màu tím và phủ lông mềm. Các lá tập trung ở đỉnh để tạo thành một bó hoa từ 15 đến 20 mảnh, dài 7 đến 12 cm, có lông mịn và lông kép, bao gồm 10 đến 14 lá mỏng, mỏng, cứng và mịn. tất nhiên. Những chiếc lá sẽ bị đánh như những chiếc lá nhút nhát. Cụm hoa có cuống dài trên tràng hoa, thường ngắn hơn lá. Hoa màu vàng có cuống ngắn. Có một viên nang radio với 5 tế bào. Hạt hình cầu nhỏ màu đen.
Cây này mọc trên cỏ và trên đất khô. Nó cũng được trồng vào cuối mùa đông cho đến ngày 2-3. Lá me được tìm thấy ở Lạng Sơn, Hòa Bình, Ninh Bình, Hà Nội, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng đến Ninh Thuận và Bình Thuận, Đồng Nai và An Giang. Một số quốc gia cũng có nhà máy này, như Ấn Độ, Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines.
Phân tích dược lý cho thấy tất cả các lá me trong lá me đều chứa canxi oxalate. Cây cũng chứa các hoạt chất tương tự như insulin, giúp điều trị bệnh tiểu đường. Nó cũng có tác dụng lợi tiểu.
Đông y sử dụng toàn bộ cây cho mục đích làm thuốc, thu hoạch quanh năm, tươi hoặc khô. Lá me chua có vị chua, tươi, tác dụng làm mới, lợi tiểu, chống viêm, tác dụng cầm máu. Nó được sử dụng như một loại thuốc cho ruột nóng, viêm dạ dày ruột, viêm ruột, tiêu chảy và ho ra máu, tiểu máu.
Ở Ấn Độ, lá được dùng làm thuốc lợi tiểu. Hạt nghiền nút. Nước rễ được sử dụng để điều trị bệnh lậu và sỏi thận. Những lợi ích tiêu hóa của tro. Người Trung Quốc đã sử dụng toàn bộ cây để điều trị suy nhược thần kinh, mất ngủ, gừng và tử cung. Điều trị tại chỗ vết thương màu vàng (vết thương màu vàng) và vết loét C tuần hoàn.
Điều trị sốt, sốt ruột, dịch tả do bệnh viêm ruột, ho ra máu: dùng 40 gram lá me để nghiền nát, đổ nước nấu chín, đổ nước uống.